Hiện nay, vắc xin phòng COVID-19 (và các biến thể) là biện pháp cần thiết nhằm kiểm soát đại dịch. Vắc xin thường gây ra các phản ứng có hại, tuy nhiên phần lớn các phản ứng này là do vắc xin kích thích đáp ứng miễn dịch bảo vệ của cơ thể, không phải là phản ứng dị ứng. Phản vệ là một phản ứng hiếm gặp, xảy ra với tần suất dưới 1/1 triệu liều đối với hầu hết các loại vắc xin. Tuy nhiên, đã có báo cáo về các trường hợp phản vệ ngay trong những ngày đầu triển khai tiêm chủng vắc xin Pfizer-BioNTech tại Anh và Mỹ. Các dữ liệu gần đây cho thấy tỷ lệ phản vệ với vắc xin này xấp xỉ 1/200.000 liều.
Trong bài viết này, Tổ chức Dị ứng Thế giới bàn luận về các nguyên nhân có thể dẫn tới phản vệ và các bước cần thực hiện nhằm giảm thiểu nguy cơ phản vệ sau khi tiêm vắc xin COVID-19.
Đến nay có rất nhiều vắc xin COVID-19 được cấp phép sử dụng trong bối cảnh đại dịch ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Các loại vắc xin, tình trạng cấp phép, bản chất của vắc xin, các tá dược đi kèm và dữ liệu về phản ứng quá mẫn của các loại vắc xin này được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng được tổng hợp trong Bảng 1.
Bảng 1: Các loại vắc xin chống lại SARS-CoV-2 đã được cấp phép tính đến 18/01/2021
Tên vắc xin và
nhà sản xuất
Tình trạng
cấp phép
(đến 01/2021)
Loại vắc xin
Tá dược
Dữ liệu phản ứng quá mẫn
CoronaVac (Sinovac, Trung Quốc)
EUA ở Trung Quốc (cho lao động thiết yếu và nhóm nguy cơ cao), Thổ Nhĩ Kỳ
Đang chờ cấp phép: Indonesia
Vắc xin bất hoạt (formalin với chất bổ trợ chứa nhôm)
Nhôm hydroxid, dinatri hydrophosphat, natri dihydrophosphat, natri clorid
Không có biến cố phản vệ trong thử nghiệm giai đoạn 3 (33.620 người tham gia)
Convidicea Ad5-nCoV (CanSino Biologics, Beijing Inst. Biotech., NPO Petrovax)
EUA ở Trung Quốc (chỉ dành cho quân đội)
Đang chờ cấp phép: Mexico
Vector adenovirus type 5 chống protein RBD gai tái tổ hợp
N/A
Không có biến cố phản vệ trong thử nghiệm giai đoạn 3 (40.000 người tham gia)
BBIBP-CorV (Sinopharm, Beijing Institute & Wuhan Inst. of Biological Products)
Cấp phép hoàn toàn ở Trung Quốc, EUA ở Bahrain, Ai Cập, UAE.
SARS-CoV-2 bất hoạt (tế bào Vero) + chất bổ trợnhôm hydroxid
Nhôm hydroxid, dinatri hydrophosphat, natri dihydrophosphat, natri clorid, natri hydroxid, natri bicarbonat, M199
Không có biến cố phản vệ trong thử nghiệm giai đoạn 3 (48.000 người tham gia)
Pfizer-BioNTech BNT162b2
EUA ở Argentina, Bahrain, Canada, Chile, Costa Rica, Ecuador, EU, Israel, Jordan, Kuwait, Mexico, Oman, Panama, Ả Rập Xê Út, Singapore, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Mỹ, WHO
Đang chờ cấp phép: Úc, Ấn Độ, Nhật Bản
Vắc xin mARN
(mã hóa glycoprotein gai (S) của virus)
[(4-hydroxybutylazanediyl)bis(hexane-6,1-diyl)bis(2-hexyldecanoate)] (ALC-0315), 2-[(polyethylene glycol)-2000]-N,N-ditetradecylacetamide (ALC-0159), 1,2-distearoyl-sn-glycero-3-phosphocholine cholesterol, kali clorid, kali dihydrophosphat, natri clorid, dinatri hydrophosphat dihydrat, saccarose, nước cất pha tiêm
Không có biến cố phản vệ liên quan đến vắc xin trong các thử nghiệm (22.000 người tham gia được ngẫu nhiên hóa). Ước tính tần suất gặp phản vệ là 1:100.000.
Moderna mRNA-1273
EUA ở Canada, EU, Israel, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Mỹ
Vắc xin mARN
(mã hóa glycoprotein gai (S) trước hòa màng đã ổn định)
Lipid (SM-102, 1,2-dimyristoyl-rac-glycero-3-methoxypolyethylene glycol-2000 [PEG2000-DMG], cholesterol, 1,2-distearoyl-sn-glycero-3-phosphocholine [DSPC]), tromethamin, tromethamin hydroclorid, acid acetic, natri acetat, saccarose
Không có biến cố phản vệ cấp trong các thử nghiệm lâm sàng(15.000 người tham gia được ngẫu nhiên hóa)
ChAdOx1 (Oxford/AstraZeneca)
EUA ở Argentina, Cộng hòa Dominica, El Salvador, EU, Ấn Độ, Mexico, Morocco, Vương quốc Anh
Đang chờ: Úc, Canada
Vắc xin vector virus không có khả năng sao chép(adenovirus của tinh tinh)
L-Histidin, L-Histidin hydroclorid monohydrat, Magnesi clorid hexahydrat, polysorbat 80, ethanol, saccarose, natri clorid, dinatri edetat dihydrat, nước cất tiêm
Không có biến cố phản vệ trong các thử nghiệm lâm sàng (12.000 người tham gia được ngẫu nhiên hóa)
Covaxin (BBV152) (Bharat Biotech, Ấn Độ)
EUA ở Ấn Độ
Vẵc xin bất hoạt
N/A
Không có phản vệ trong thử nghiệm giai đoạn 1
(n = 300)
Sputnik V (Gamaleya Research Inst.)
Nga, Palestine
Vector hai phần không có khả năng sao chép (adenovirus) chống glycoprotein gai (S))
Tris(hydroxymethyl)aminomethane, natri clorid, saccarose, magnesi clorid hexahydrat, natri EDTA, polysorbat 80, ethanol, nước cất tiêm
Không có phản vệ trong thử nghiệm giai đoạn 1/2
(n = 76)
EpiVacCorona (Federal Budgetary Research Institution State Research Ctr, Nga)
Được cấp phép ở Nga dựa trên kết quả thử nghiệm lâm sàng pha 1/2
Vắc xin peptid với chất bổ trợ chứa nhôm
Nhôm hydroxid, kali dihydrophosphat, kali clorid, natri hydrophosphat dodecahydrate, natri clorid, nước cất tiêm
Chưa rõ
*EUA: Cấp phép sử dụng khẩn cấp
Nguyên nhân có thể dẫn tới dị ứng với vắc xin COVID-19
Phản ứng dị ứng với vắc xin chủ yếu là do chất bổ trợ, tá dược hoặc các thành phần khác như chất bảo quản và kháng sinh. Vắc xin có thể chứa một lượng nhỏ protein xuất hiện trong quá trình sản xuất.
Polyethylen glycol (PEG)
Vắc xin Pfizer-BioNTech chứa hai loại hạt lipid nano mới, trong đó, một loại được “PEG-hóa” (Polyethylene glycol, phân tử khối 2000 Da, viết tắt là PEG2000). Vắc xin mARN của Moderna cũng chứa một loại lipid được PEG-hóa (cũng là một loại PEG-2000). Polyethylen glycol là một nhóm hợp chất polyether được sử dụng phổ biến trong sản xuất dược phẩm, mỹ phẩm (như kem dưỡng da, dầu gội, thuốc nhuộm tóc, sản phẩm chăm sóc nha khoa). PEG cũng được sử dụng làm phụ gia thực phẩm và sử dụng trong một số quy trình sản xuất công nghiệp. Đối với vắc xin COVID-19, tiểu phân nano PEG bọc xung quanh phân tử mRNA ngăn cản enzym thủy phân mRNA, làm tăng độ tan trong nước và từ đó tăng sinh khả dụng của vắc xin.
Trước đây, PEG được cho là trơ về mặt sinh học, nhờ vậy PEG được ứng dụng rất phổ biến. Nó là một phần hoạt chất trong các thuốc nhuận tràng và chế phẩm dùng cho các bệnh đường ruột, được sử dụng làm chất kết dính viên thuốc, là chất phủ lên bề mặt của viên nén, là chất ổn định trong thuốc tiêm dạng lỏng, chất bôi trơn, gel siêu âm, thuốc mỡ, thuốc viên đạn, thuốc tiêm giải phóng chậm, xi măng sinh học, và chất bảo quản nội tạng. Tuy nhiên, trong y văn hiện ghi nhận ngày càng nhiều trường hợp phản ứng quá mẫn nhanh (loại I) đối với PEG.
Dữ liệu đến nay cho thấy dị ứng PEG là hiếm gặp, điều này dường như không hợp lý với số trường hợp phản vệ liên quan đến vắc xin Pfizer-BioNTech. Vì vậy, có khả năng có các nguyên nhân khác ngoài PEG dẫn đến phản vệ.
Polysorbat 80 và PEG
Một số loại vắc xin COVID-19 không dựa trên công nghệ mARN có sử dụng polysorbat 80. Khác với PEG, polysorbat 80 là tá chất được sử dụng trong nhiều loại vắc xin (bạch hầu - ho gà - uốn ván và các vắc xin tương tự, viêm gan B, HPV, phế cầu khuẩn, influenza, zona) và nhiều loại thuốc khác. Trong y văn có hai trường hợp dị ứng PEG có dị ứng chéo polysorbat 80. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của nhóm tác giả, hầu hết các bệnh nhân dị ứng PEG có thể dung nạp polysorbat 80. Vắc xin ChAdOx1 của AstraZeneca chứa hàm lượng polysorbat 80 dưới 100mg trong mỗi liều. Lượng chất này tương tự với lượng polysorbat 80 trong hầu hết các vắc xin phòng cúm, và bằng một nửa so với vắc xin phòng cúm cho người trên 65 tuổi. Các loại vắc xin này không có mối liên quan đến việc tăng tần suất gặp phản ứng quá mẫn (như đối với vắc xin Pfizer-BioNTech). Đây là căn cứ để Cơ quan y tế công cộng Anh cho phép tiêm vắc xin AstraZeneca ChAdOx1 cho người dị ứng PEG.
Bảng 2: Phân tầng bệnh nhân chống chỉ định và thận trọng khi cân nhắc tiêm vắc xin COVID-19
Tiến hành tiêm
Thận trọng
Chống chỉ định
Đặc điểm bệnh nhân
Tiền sử dị ứng thức ăn, nọc độc, hoặc nhóm thuốc đã được xác định
Dị ứng qua đường hô hấp
Tiền sử gia đình có người dị ứng
Phản ứng tại chỗ tiêm khi tiêm vắc xin mũi 1
Quá mẫn với NSAID như aspirin, ibuprofen
Dùng liệu pháp miễn dịch dị nguyên
Hen suyễn đã điều trị ổn định
Tiền sử phản ứng quá mẫn nhanh (chủ yếu là phản vệ) với nhiều nhóm thuốc khác nhau chưa rõ loại (có thể là dị ứng PEG)
Tiền sử phản vệ sau tiêm vắc xin hoặc kháng thể đơn dòng
Tiền sử phản vệ vô căn
Mắc bệnh tế bào mast
Tiền sử dị ứng với vắc xin định tiêm
Đối với loại vắc xin mRNA, tiền sử dị ứng với vắc xin mRNA khác
Tiền sử dị ứng với thành phần của vắc xin, bao gồm PEG
Thực hiện
Tiến hành tiêm theo hướng dẫn
Cân nhắc theo dõi 15-30 phút sau tiêm.
Đánh giá nguy cơ dị ứng PEG
Cân nhắc ý kiến bác sĩ dị ứng - miễn dịch
Cân nhắc theo dõi 30 phút sau tiêm.
Chưa có dữ liệu để khuyến cáo về tiền xử lý (với thuốc kháng histamin)
Sử dụng thuốc kháng histamin trước hoặc sau tiêm có thể che đi triệu chứng ban đầu của phản ứng.
Không tiêm loại vắc xin được đề cập trên
Nên chọn loại vắc xin COVID-19 khác, không chống chỉ định nếu có thể
Cân nhắc ý kiến bác sĩ dị ứng - miễn dịch
Lựa chọn loại vắc xin tiêm mũi thứ 2 trong trường hợp dị ứng với vắc xin mũi thứ nhất
Trong trường hợp người được tiêm xuất hiện phản ứng dị ứng toàn thân với loại vắc xin mũi thứ nhất, không nên tiêm vắc xin mũi 2 cùng loại hoặc vắc xin có tá dược tương tự loại vắc xin thứ nhất. Ví dụ, bệnh nhân có phản ứng có hại toàn thân sau tiêm vắc xin Pfizer BioNTech không nên tiêm liều thứ 2 vắc xin này, đồng thời không nên tiêm vắc xin Mordena vì đây cũng là vắc xin mRNA có chứa PEG. Mặc dù hiện tại không có dữ liệu về hiệu quả bảo vệ khi tiêm vắc xin khác loại, nhưng Cơ quan quản lý y tế Anh khuyến cáo có thể sử dụng vắc xin AstraZeneca thay thế (nếu không có chống chỉ định). Hiệp hội Dị ứng và Miễn dịch Anh Quốc khuyến cáo người được tiêm chỉ xuất hiện phản ứng da như nổi mề đay khu trú (không có triệu chứng toàn thân) sau tiêm liều đầu vắc xin thì có thể tiêm liều thứ 2 bằng vắc xin cùng loại tại cơ sở y tế có đủ phương tiện hồi sức cấp cứu và theo dõi sau tiêm 30 phút.
Vì tỷ lệ phản vệ sau tiêm vắc xin rất nhỏ nên Tổ chức dị ứng thế giới đề xuất một chiến lược toàn cầu. Tổ chức này đã phối hợp với Đại học Hoàng gia London và Mạng lưới báo cáo trực tuyến về phản vệ (NORA) thiết lập một hệ thống để nhân viên y tế báo cáo phản ứng phản vệ hoặc dị ứng nghi ngờ liên quan đến vắc xin COVID-19.
Nguồn: Turner et al. World Allergy Organization Journal (2021) 14:100517 http://doi.org/10.1016/j.waojou.2021.100517
Tổng hợp: CTV. Tăng Quốc An, CTV. Nguyễn Hà Nhi, ThS.DS. Nguyễn Thị Tuyến