Codein, oxycodone, tramadol và cytochrom CYP2D6: thận trọng với các chất chuyển hóa có hoạt tính

Codein, oxycodon và tramadol là các tiền thuốc opioid, được chuyển hóa bởi cytochrom CYP2D6 thành các opioid có hoạt tính. Tuy nhiên, hoạt động của cytochrom CYP2D6 có thể bị ảnh hưởng lớn bởi đa hình di truyền, với bốn kiểu chuyển hóa chính: chuyển hóa “chậm” không có hoạt tính hoặc có rất ít hoạt tính, chuyển hóa “trung gian” có hoạt tính chậm, và các cá thể bình thường chuyển hóa tốt thuốc và nhóm chuyển hóa “siêu nhanh”.

 

 

 

Codein, oxycodon và tramadol là các tiền thuốc opioid, được chuyển hóa bởi cytochrom CYP2D6 thành các opioid có hoạt tính. Tuy nhiên, hoạt động của cytochrom CYP2D6 có thể bị ảnh hưởng lớn bởi đa hình di truyền, với bốn kiểu chuyển hóa chính: chuyển hóa “chậm”  không có hoạt tính hoặc có rất ít hoạt tính, chuyển hóa “trung gian” có hoạt tính chậm, và các cá thể bình thường chuyển hóa tốt thuốcvà nhóm chuyển hóa “siêu nhanh”.

 

Theo ước tính, có 3,6% đến 6,5% dân số da trắng là những người có CYP2D6 chuyển hóa “siêu nhanh” (số liệu khác nhau tùy thuộc vào quần thể). Đối với những người này, việc chuyển hóa quá mức các tiền thuốc opioid thành các chất chuyển hóa có hoạt tính có thể dẫn tới quá liều hoặc độc tính khi dùngthuốc ởliều điều trị. Ngược lại, khoảng 7% người da trắng là những người chuyển hóa chậm, do đó cần sử dụng liều lớn hơn để thuốc có tác dụng, và những bệnh nhân này có thể không đáp ứng hoàn toàn với các thuốc giảm đau này.

 

Các tương tác thuốc cũng có thể làm thay đổi hoạt động của cytochrome CYP2D6. Các thuốc ức chế CYP2D6 làm giảm hình thànhcác chất chuyển hóa có hoạt tính và do đó, giảm hiệu lực của các thuốc giảm đau , thường gặpvới các thuốc chống trầm cảm (citalopram, escitalopram, duloxetin-,fluoxetin, paroxetin, sertralin ...), thuốc chống loạn thần (haloperidol, quetiapin, risperidon ...) và thuốc chống loạn nhịp tim (amiodaron, flecanid, propafenon,...).

 

Ngược lại, các chất ức chế CYP3A4 thúc đẩy con đường chuyển hóa thông qua CYP2D6 và do đó tạo ra các chất chuyển hóa có hoạt tính. Việc sử dụng phối hợpvới một số thuốc ức chế CYP3A4 làm tăng nguy cơ quá liều opioid và nguy cơ gặp tác dụng bất lợi. Các thuốc ức chế CYP3A4 điển hình bao gồmthuốc chống nấm (nhóm azol), kháng sinh (erythromycin, clarithromycin, v.v.) hoặc amiodaron (ức chế 2D6 và 3A4), diltiazem, verapamil,...

 

Francia Razafy đã phân tích 344 đơn thuốc từ các viện dưỡng lãothu thập trong2 năm 2019 và 2020, với số thuốc thường kê trong đơn lớn hơn10 loại. Nghiên cứu đã ghi nhận 23 đơn thuốc (7%) có kết hợp tramadol, codein hoặc oxycodon vớicác thuốc  ức chế CYP2D6 và 3 đơn thuốc (1%) có phối hợp với chất ức chế CYP3A4 (amiodaron).

 

Như vậy, đa hình di truyền và tương tác thuốc có thể ảnh hưởng tới tác dụng giảm đau của các opioid. Trong điều kiện chưa triển khai được các xét nghiệm di truyền thường quy, tác dụng của các opioid có thể khó dự đoán trước, đặc biệt trên bệnh nhân cao tuổi cần dùng nhiều loại thuốc. Nếu ghi nhận các trường hợp thất bại điều trị hoặctác dụng không mong muốn, cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển hóa của các thuốc này.

 

Nguồn: Bulletin d’Informations de Pharmacologie Clinique de la région Occitanie (BIP Occitanie 2020). 27(3): 45 - 69

 

Người tổng hợp: DS. Từ Phạm Hiền Trang, DS. Nguyễn Ngọc Triển

Các tin liên quan