Kết quả ban đầu về giám sát điều trị thông qua định lượng nồng độ hydroxycloroquin huyết tương trong điều trị bệnh nhân nặng nhiễm COVID-19

Quy trình Giám sát điều trị thông qua định lượng nồng độ thuốc trong máu (therapeutic drug monitoring - TDM) của hydroxycloroquin (theo dõi nồng độ thuốc trong huyết tương) cho bệnh nhân nhập viện tại bệnh viện trường đại học (CHU) và các bệnh viện khu vực liên kết với Đại học Montpellier đã ghi nhận các kết quả phản hồi đầu tiên. Hydroxycloroquin đã được đưa vào phác đồ điều trị của bệnh viện CHU đại học Montpellier vào ngày 24/3/2020 cho các bệnh nhân nhiễm COVID19 cần nhập viện để điều trị nội trú hoặc hồi sức. Phác đồ dùng thuốc trong 10 ngày bao gồm liều tải 600 mg vào ngày đầu tiên sau đó là liều duy trì 200 mg/lần, 3 lần/ngày nhằm xem xét các vấn đề khi sử dụng thuốc viên nghiền qua ống thông mũi dạ dày. Các chỉ số sinh học và các dấu hiệu lâm sàng được theo dõi bao gồm: đo điện tâm đồ (ECG) thường xuyên trước điều trị, ngày 1, ngày 3, ngày 6 và ngày 9 của phác đồ; theo dõi nồng độ điện giải trong máu cũng như tiến hành quy trình TDM hydroxycloroquin xác định nồng độ đáy (đo ngay trước khi dùng liều tiếp theo) tại giờ thứ 48, lặp lại sau mỗi 48 giờ nếu có thể. Các xét nghiệm định lượng sắc ký được tiến hành vào các ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu hàng tuần trong suốt quá trình điều trị. Các mục tiêu điều trị được lấy theo những khuyến cáo cập nhật từ ban chuyên môn về TDM của Hội Dược lý và Điều trị Pháp (Société Française de Pharmacologie et de Thérapeutique - SFPT) (với nồng độ huyết tương mục tiêu tối thiểu >100 ng/mL).

 

Tổng cộng có 54 xét nghiệm được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 26/3/2020 đến 07/4/2020 cho 38 bệnh nhân không tham gia các thử nghiệm lâm sàng. Bảy bệnh nhân nhập viện để điều trị nội trú, 27 bệnh nhân ở khoa hồi sức (tại 3 cơ sở) và bốn bệnh nhân nhập viện tại các bệnh viện khu vực. Mười bệnh nhân hồi sức được xét nghiệm 2 lần, ba bệnh nhân xét nghiệm 3 lần (thực hiện cách nhau 2 hoặc 3 ngày).

 

26% kết quả định lượng tại thời điểm đầu tiên (10 xét nghiệm) có nồng độ thấp hơn mục tiêu 100 ng/mL (8% dưới 50 ng/mL), ghi nhận cụ thể trên 30% bệnh nhân nội trú, 22% bệnh nhân hồi sức và 50% bệnh nhân ngoại trú. Sau đó, tất cả các bệnh nhân đều đạt nồng độ mục tiêu trong lần xét nghiệm thứ hai sau khi hiệuchỉnh liều theo kết quả giám sát nồng độ. Nồng độ tối đa ghi nhận được trong giai đoạn TDM là 792 ng/mL (trung vị nồng độ là 157 ng/mL).

 

Hệ số tích lũy (nồng độ thuốc trong huyết tương trong ngày/nồng độ trước đó,đo vào ngày 2 hoặc ngày 3) có thể dao động mạnh giữa các bệnh nhân và trên từng cá thể bệnh nhân (ở bệnh nhân hồi sức): trung vị là 2,3, tối đa là 4,8; tuy nhiên, có 4 bệnh nhân có hệ số tích lũy nhỏ hơn 1. Hiện tại, chưa ghi nhận được trường hợp nào có nồng độ đạt đến ngưỡng gây độc là 1000 ng/mL.

 

Các kết quả ban đầu này đã cung cấp những kinh nghiệm đáng quý cho thực hành. Mặc dù các ngưỡng nồng độ mục tiêu được đề xuất vẫn đang trong quá trình xem xét về tính hợp lí, số liệu TDM này đã cho thấy nguy cơ dùng liều ban đầu dưới ngưỡng ở 1/5 số bệnh nhân hoặc thậm chí 1/2 số bệnh nhân tùy thuộc vào cơ sở và phác đồ điều trị. Một liều tải lớn hơn 600 mg, ví dụ 800 mg theo phác đồ sử dụng trong nghiên cứu Discovery, có thể là một lựa chọn hợp lý. Sau đó sử dụng liều duy trì 600 mg/ngày là phù hợp. Ngoài ra còn có sự thay đổi lớn giữa các cá thể cũng như trêntừng cá thể bệnh nhân hồi sức tích cực về hệ số tích lũy thuốc, đặc biệt có nguy cơ dùng thuốc dưới liều và quá liều trong quá trình theo dõi (dao động lớn đặc biệt trên bệnh nhân có lọc máu vàtrong giai đoạn hấp thu). Do đó, lợi ích của TDM tại giờ thứ 48 và sau đó ít nhất hai lần một tuần được xác nhận ở tất cả các bệnh nhân, cả trong môi trường hồi sức tích cực hoặc điều trị thông thường.

 

Nguồn:  Bulletin d’Informations de Pharmacologie Clinique de la région Occitanie (Đặc san COVID 19 - tháng 4/2020)

Tác giả:Etienne Mondesert - Montpellier

Người dịch: SVD5. Hà Mỹ Ngọc, Ds. Dương Khánh Linh

Các tin liên quan