Từ năm 2001,khi imatinib (Glivec®) ra đời, các thuốc ức chế protein kinase (IPK) đã trở thành lựa chọn chính trong điều trị một số loại ung thư. Tuy nhiên, dữ liệu cảnh giác dược cho thấy IPK có liên quan tới nguy cơ huyết khối động mạch và/hoặc tĩnh mạch.
Từ năm 2001,khi imatinib (Glivec®) ra đời, các thuốc ức chế protein kinase (IPK) đã trở thành lựa chọn chính trong điều trị một số loại ung thư. Tuy nhiên, dữ liệu cảnh giác dược cho thấy IPK có liên quan tới nguy cơ huyết khối động mạch và/hoặc tĩnh mạch. Trên thực tế, một số thuốc nhóm IPK như sunitinib (Sutent®) có hoạt tính ức chế thụ thể VEGF (yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu). Tác dụng này có thể dẫn tới rối loạn chức năng nội mô và tăng huyết áp được cho là có liên quan tới nguy cơ tắc mạch do huyết khối. Ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính và bệnh bạch cầu dòng lympho cấp tính, nguy cơ huyết khối này đã được mô tả cụ thể là do hai thuốc nhóm IPK : nilotinib (Tasigna®) và ponatinib (Iclusig®). Tác dụng bất lợi này có thể được giải thích là do ponatinib có ái lực gắnlớn với thụ thể VEGF. Nilotinib đồng thời cũng có thể thúc đẩy xơ vữa động mạch và làm tăng nguy cơ huyết khối tắc mạch, tuy nhiên vẫn chưa rõ cơ chế của hiện tượng trên.
Trong thực hành, các yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi đượcnên được giám sát chủ động ở bệnh nhân sử dụng nhóm thuốc IPK, đặc biệt là nilotinib, ponatinib hoặc sunitinib. Trong trường hợp gặp biến cố huyết khối tắc mạch, cần phải báo cáo tác dụng bất lợi của thuốc cho Trung tâm Cảnh giác dược để được hỗ trợ trong việc quản lý bệnh nhân sau khi đã đánh giá mối quan hệ nhân quả của việc sử dụngthuốc với tác dụng bất lợi này.
Nguồn: Bulletin d’Informations de Pharmacologie Clinique de la région Occitanie (BIP Occitanie 2020). 27(3): 45 - 69.
Tác giả : Samuel Thuriot (sinh viên ngoại trú về Cảnh giác Dược) và TS. François Montastruc – Toulouse
Người dịch : DS. Nguyễn Ngọc Triển, DS. Vũ Đức Hoàn