ANSM: Progestin và các khuyến cáo chung để hạn chế nguy cơ u màng não

 

Sau cuộc họp của Ủy ban chuyên môn vào tháng 01/2023, khuyến cáo ban đầu đã được đưa ra để kiểm soát nguy cơ u màng não đối với các thuốc progestin đang trong quá trình nghiên cứu dịch tễ học bao gồm medrogeston, progesteron ở mức liều100 mg và 200mg, dydrogesteron và dienogest.

 

Progestin là thuốc được sử dụng để điều trị các bệnh lý phụ khoa khác nhau (lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung, rong kinh, rối loạn chu kỳ) hoặc sử dụng trong liệu pháp thay thế hormon (bao gồm mãn kinh), ngoài ra còn được sử dụng trong sản khoa (vô sinh do thiểu năng hoàng thể, nạo hút thai nhiều lần).

 

Từ năm 2019 đến năm 2020, các nghiên cứu dịch tễ học liên tiếp đã chứng minh nguy cơ mắc u màng não tăng theo liều lượng đối với ba loại progestin (cyproteron, nomegestronl và chlormadinon). Từ những nghiên cứu này, nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm hạn chế nguy cơ. Đồng thời, trong quá trìnhtriển khai giám sát tăng cường đối với tất cả các progestin, tình trạng u màng não cũng được ghi nhận khi điều trị bằng các progestin khác. 

 

Một ủy ban khoa học tạm thời bao gồm đại diện bệnh nhân và các nhân viên y tế đã được thành lập để đưa ra khuyến cáo về điều kiện sử dụng các progestin liên quan đến nguy cơ u màng não, ngoại trừ cyproteron acetat (CPA), nomegestrol (NOMAC) và chlormadinon (CMA). Mục đích là để đảm bảo rằng những bệnh nhân được điều trị bằng progestin đều phù hợp và có thể tiếp tục sử dụng thuốc trong các điều kiện an toàn. 

 

Ủy ban cũng cho rằng không thể loại trừ các progestin chưa được ghi nhận về nguy cơu màng não và đã đưa ra các khuyến cáo ban đầu để hạn chế nguy cơ trong thời gian chờ kết quả của các nghiên cứu dịch tễ học do Epi-Phare thực hiện để xác nhận hoặc bác bỏ nguy cơ kể trên. Kết quả của những nghiên cứu này sẽ sớm được công bố.

 

Các trường hợp u màng não được công bố khi điều trị bằng progestin đơn độc, cụ thể là medrogeston và progesteron ở mức liều 100 mg và 200 mg cho thấy sau khi ngừng thuốc khối u không tiến triển hoặc kích thước khối u giảm. Do đó, tờ tóm tắt các đặc tính sản phẩm (SPC) và tờ hướng dẫn sử dụng của medrogeston đã được cập nhật bao gồm nguy cơ u màng não. Ngoài ra, vì progesteron 100 mg và 200 mg được sử dụng ở các quốc gia khác trong Liên minhChâu Âu, chủ đề này cũng cần được thảo luậntại Ủy ban Cảnh giác Dược Châu Âu (PRAC). 

 

 

Khuyến cáo sơ bộ về việc sử dụng progestin dạng medrogeston, progesteron 100 hoặc 200 mg, dydrogesteronvà dienogest

- Trong trường hợp có tiền sử u màng não hoặc đang mắc u màng não, chống chỉ định điều trị bằng progestin, trừ những trường hợp đặc biệt đã được hội chẩn đa ngành (bao gồm bác sĩ phụ khoa và/hoặc bác sĩ nội tiết và bác sĩ phẫu thuật thần kinh) dựa trên cân bằng lợi ích/nguy cơ đối với mỗi bệnh nhân được điều trị và sự sẵn có của các liệu pháp thay thế.

 

- Không loại trừ nguy cơ mắc u màng não khikê một loại progestin mới để tiếp tục điều trị cho bệnh nhân đã dùng thuốc cyproteron acetat, chlormadinon hoặc nomegestrol trước đó do không thể xác định được mức nguy cơ ở thời điểm đó. Trước khi kê đơn mới hoặc chuyển đổi giữa các loại progestin, cần phải ràsoát tất cả các loại progestin đã được điềutrị trên bệnh nhân và thời gian sử dụng của từng thuốc. 

 

- Nên điều trị với mức liều tối thiểu có hiệu quả với thời gian sử dụng ngắn nhất có thể. 

 

- Nên đánh giá lại hiệu quả điều trị thường xuyên (hàng năm), đặc biệt là gần thời kỳ mãn kinh do nguy cơ u màng não tăng mạnh theo tuổi tác. 

 

- Nên thực hiện chụp cộng hưởng từ não trong trường hợp có các dấu hiệu lâm sàng trên thần kinh hướng đến u màng não (đau đầu, rối loạn thị giác, ngôn ngữ, trí nhớ và thính giác, buồn nôn, chóng mặt, co giật, mất khứu giác, yếu hoặc liệt). 

 

Nguồn: https://ansm.sante.fr/actualites/risque-de-meningiome-et-progestatifs-recommandations-generales-pour-limiter-ce-risque  

Điểm tin: CTV. Phùng Ngọc Mai, CTV. Nguyễn Ngọc Quỳnh Trang

Phụ trách: ThS.DS. Nguyễn Thị Tuyến