Thông tin dành cho các chuyên gia huyết học, bác sĩ chuyên khoa các bệnh về máu, bác sĩ ung thư, bác sĩ tim mạch, dược sĩ lâm sàng và dược sĩ cộng đồng.
- Ibrutinib làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim và suy tim nghiêm trọng, có thể dẫn tới tử vong;
- Bệnh nhân cao tuổi có chỉ số ECOG ≥2 hoặc các bệnh lý tim mạch đi kèm có thể làm tăng nguy cơ gặp biến cố tim mạch, bao gồm biến cố gây tử vong đột ngột.
- Không nên bắt đầu điều trị bằng ibrutinib khi không có đánh giá lâm sàng về tiền sử và chức năng tim mạch của bệnh nhân;
- Đối với các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ gây biến cố tim mạch, cần đánh giá cân bằng lợi ích/nguy cơ trước khi bắt đầu điều trị bằng Imbruvica; có thể cân nhắc các phương pháp điều trị thay thế.
- Việc điều trị phải đi kèm với việc theo dõi chặt chẽ bệnh nhân về các dấu hiệu suy giảm chức năng tim và xử trí kịp thời nếu có ảnh hưởng.
- Nên ngưng sử dụng ibrutinib trong trường hợp suy tim độ 2/rối loạn nhịp tim độ 3 khởi phát hoặc diễn biến xấu. Sau khi hiệu chỉnh liều có thể tái sử dụng thuốc.
Ibrutinib được chỉ định:
- Dưới dạng đơn trị liệu để điều trị bệnh ung thư bạch huyết tế bào vỏ (MCL) tái phát hoặc dai dẳng ở bệnh nhân trưởng thành;
- Dưới dạng đơn trị liệu hoặc kết hợp với rituximab, obinutuzumab hoặc venetoclax để điều trị bệnh bạch cầu mạn dòng lympho (CLL) ở bệnh nhân trưởng thành chưa được điều trị trước đó;
- Dưới dạng đơn trị liệu hoặc kết hợp với bentamustin và rituximab (BR), để điều trị bệnh bạchcầu mạn dòng lympho (CLL) ở bệnh nhân trưởng thành đã được điều trị ít nhất một lần trước đó;
- Dưới dạng đơn trị liệu, để điều trị bệnh tăng globulin đại phân tử Waldenström (WM) ở bệnh nhân trưởng thành đã được điều trị ít nhất một lần trước đó, hoặc điều trị đầu tay cho những bệnh nhân không thích hợp với liệu pháp hóahọcmiễn dịch. Ibrutinib kết hợp với rituximab được chỉ định để điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc WM.
Đánh giá dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (RCT) cho thấy tỷ lệ đột tử do tim, đột tử hoặc tử vong do tim ở nhóm ibrutinib (11 trường hợp; 0,48%) cao hơn gần 5 lần so với nhóm đối chứng (2 trường hợp; 0,10%). Tỷ lệ đột tử do tim, đột tử hoặc tử vong do tim được đánh giá sau khi hiệu chỉnh mức độ phơi nhiễm thuốc ở nhóm ibrutinib (0,0002) cao hơn 2 lần so với nhóm đối chứng (0,0001) (được biểu thị bằng số bệnh nhân gặp biến cố chia cho số tháng bệnh nhân có nguy cơ).
Dựa trên những dữ liệu có sẵn về độc tính trên tim của ibrutinib, các biện pháp bổ sung để giảm nguy cơ trên tim mạch đã được thêm vào phiếu tóm tắt đặc tính sản phẩm:
- Bệnh nhân cao tuổi, có chỉ số đánh giá toàn trạng (PS) theo ECOG lớn hơn hoặc bằng 2, hoặc các bệnh lý tim mạch đi kèm có thể làm tăng nguy cơ biến cố, bao gồm cả các biến cố tim khởi phát đột ngột gây tử vong.
- Nên thực hiện đánh giá lâm sàng thích hợp về tiền sử tim mạch và chức năng tim trước khi bắt đầu điều trị bằng Imbruvica. Trong quá trình điều trị, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ về các dấu hiệu suy giảm chức năng tim trên lâm sàng và xử trí lâm sàng nếu cần thiết. Các đánh giá bổ sung (điện tâm đồ, siêu âm tim) nên được xem xét chỉ định cho những bệnh nhân có nguy cơ tim mạch.
Đối với những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ đáng kể có thể dẫn đến biến cố tim mạch, cần đánh giá cân bằng lợi ích/nguy cơ trước khi bắt đầu điều trị bằng ibrunitib, các liệu pháp điều trị thay thế cũng có thể được xem xét.
Phần 4.4 trong phiếu tóm tắt đặc tính sản phẩm của Imbruvica đã được cập nhật tương ứng và phần 4.8 đã bổ sung ngừng tim như một phản ứng có hại của thuốc.
Ngoài ra, Cơ quan Quản lý cấp phép lưu hành Pháp đã xem xét dữ liệu lâm sàng của những bệnh nhân có biến cố tim cấp độ 3 để đánh giá khả năng tái xuất hiện độc tính trên tim mạch ở những bệnh nhân giảm liều ibrutitib so với những bệnh nhân không giảm liều. Kết quả là những bệnh nhân được giảm liều Imbruvica có tỷ lệ tái xuất hiện biến cố tim mạch thấp hơn so với những bệnh nhân không giảm liều.
Dựa trên những dữ liệu này, phần 4.2 trong tờ tóm tắt đặc tính sản phẩm của Imbruvica đã bổ sung các khuyến cáo sau:
Nên ngừng điều trị Imbruvica ngay khi tình trạng suy tim độ 2 hoặc rối loạn nhịp tim độ 3 mới khởi phát hoặc có tiến triển nặng hơn. Khi các triệu chứng nhiễm độc đã giảm xuống độ 1 hoặc bệnh nhân đã trở về trạng thái bình thưởng, có thể tái điều trị bằng Imbruvica với liều khuyến cáo theo bảng dưới đây:
Cần đánh giá cân bằng lợi ích/nguy cơ trước khi bắt đầu điều trị lại bằng Imbruvica
Các khuyến cáo hiệu chỉnh liều cho các trường hợp độc tính không liên quan đến tim hầu như không thay đổi (độc tính không liên quan đến huyết học mức độ 3 trở lên, giảm bạch cầu trung tính mức độ 3 kèm theo nhiễm trùng, sốt hoặc độc tính liên quan đến huyết học mức độ 4), ngoài ra bổ sung ghi chú: “Khi tái điều trị bằng Imbruvica, bắt đầu với liều tương tự hoặc với liều thấp hơn theo đánh giá cân bằng lợi ích/nguy cơ. Nếu gặp lại các biến cố, giảm liều xuống 140 mg/ngày”.
Nguồn: Safety information - Imbruvica (ibrutinib) : news mes - ANSM (sante.fr)
Điểm tin: CTV. Nguyễn Ngọc Quỳnh Trang, CTV. Phùng Ngọc Mai
Phụ trách: ThS.DS. Nguyễn Thị Tuyến