Ung thư hắc tố da là một loại ung thư da phát sinh từ các tế bào hắc tố ác tính, là bệnh ung thư phổ biến thứ năm ở Hoa Kỳ, với 99.780 trường hợp mới được ước tính vào năm 2022.
Tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, biện pháp điều trị ung thư hắc tố da bao gồm liệu pháp miễn dịch, liệu pháp tại chỗ, phẫu thuật cắt bỏ và liệu pháp điều trị đích. Đối với những bệnh nhân mắc ung thư hắc tố da di căn, cần sử dụng liệu pháp toàn thân với các tác nhân điều trị đích hoặc liệu pháp miễn dịch.
Khoảng một nửa số trường hợp ung thư hắc tố da có đột biến kích hoạt trong gen BRAF, gen này mã hóa BRAF kinase của con đường protein kinase được hoạt hóa bởi mitogen (MAPK). Cụ thể, sự đột biến BRAF V600 đã được chứng minh là có đáp ứng với liệu pháp điềutrị đích với chất ức chế BRAF. Kết quả thử nghiệm ủng hộ việc bổ sung chất ức chế MEK vào liệu pháp ức chế BRAF, và sự kết hợp này đã trở thành tiêu chuẩn điều trị cho bệnh nhân có đột biến BRAF V600.
FDA đã phê duyệt 3 cặp chất ức chế BRAF và MEK để điều trị ung thư hắc tố da mang đột biến BRAF V600 bao gồm: dabrafenib và trametinib (Tafinlar, Mekinist; Novartis), encorafenib và binimetinib (Braftovi, Mektovi; Pfizer), và vemurafenib và cobimeboranib (Zellicboranib); Genentech). Tất cả các thuốc đều được dùng bằng đường uống và có bán tại các hiệu thuốc của bệnh viện chuyên khoa.
Cần theo dõi và quản lý chặt chẽ các thuốc ức chế BRAF và MEK do có liên quan đến các độc tính khác nhau. Trong đó, các độc tính thường gặp bao gồm rụng tóc, đau khớp, tiêu chảy, mệt mỏi, buồn nôn, sốt, phát ban và nôn. Cần có kế hoạch theo dõi chặt chẽ hơn đối với những độc tính hiếm gặp như độc tính trên tim, da và mắt.
Sốt
Sốt được định nghĩa khi nhiệt độ cơthể từ 38,0oC trở lên (≥ 100,4oF), tỷ lệ xuất hiện biến cố này khác nhau liên quan đến 3 loại thuốc phối hợp giữa chất ức chế BRAF và MEK, cụ thể là 57% sau khi sử dụng dabrafenib-trametinib, cao hơn so với vemurafenib - cobimetinib (22%) và encorafenib - binimetinib (19%). Tình trạng sốt có thể phức tạp hơn do cảm giác ớn lạnh, hạ huyết áp, tổn thương thận hoặc lạnh run. Khi sốt khởi phát, khuyến cáo tạm dừng thuốc ức chế BRAF/MEK đến khi hạ sốt. Có thể sử dụng các biện pháp xử trí bổ sung, bao gồm sử dụng thuốc hạ sốt, truyền dịch, nghỉ ngơi, và cân nhắc sử dụng liều thấp steroid. Có thể sử dụng thuốc hạ sốt để dự phòng ban đầu hoặc dự phòng thứ phát trong thời gian điều trị bằng dabrafenib và trametinib. Các dược sĩ cần tư vấn cho bệnh nhân về tầnsuất xuất hiện biến cố, các dấu hiệu và triệu chứng của sốt, tầm quan trọng của việc bù nước – điện giải, và theo dõi nhiệt độ bằng nhiệt kế.
Độc tính trên da
Một số độc tính trên da thường gặp khi điều trị bằng chất ức chế BRAF và MEK, bao gồm tăng sừng (hyperkeratosis), vết ban đỏ mất cảm giác ở lòng bàn tay-bàn chân (palmar-plantar erythrodysesthesia), nhạy cảm với ánh sáng và phát ban. Hiện tượng nhạy cảm với ánh sáng là tác dụng không mong muốn phổ biến nhất với Vemurafenib, với tỷ lệ được báo cáo lên đến 49%. Dược sĩ nên khuyên bệnh nhân tránh tiếp xúc với ánh nắng gay gắt, sử dụng kem chống nắng phổ rộng có hệ số chống nắng từ 30 trở lên và mặc quần áo bảo vệ khi ra ngoài.
Các khối u ác tính ở da, bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảy ở da (cSCC) và u sừng, cũng đã được báo cáo ởcác bệnh nhân sử dụng chất ức chế BRAF và MEK. Nguy cơ mắc thêm bệnh ác tính ở da này có thể đặc biệt đáng báo động đối với những bệnh nhân bị ung thư hắc tố da. Tỷ lệ mắc cSCC cao hơn ởnhững bệnh nhân sử dụng đơn độc chất ức chế BRAF, do hoạt hóa ngược con đường MAPK vượt qua sự ức chế BRAF. Nguy cơ mắc cSCC sẽ giảm xuống nếu bổ sung chất ức chế MEK. Ví dụ, tỷ lệ mắc bệnh này là 11% với vemurafenib, nhưng chỉ còn 3% với vemurafenib và cobimetinib. Bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế BRAF/MEK được khuyến cáo tới khám da liễu định kỳ 2 tháng/lần để kiểm tra những thay đổi đáng nghi ngờ trên da.
Hiếm khi xuất hiện các trường hợp phản ứng với tăng bạch cầu ái toan, các triệu chứng toàn thân và hội chứng Stevens-Johnson với các chất ức chế BRAF và MEK. Các phản ứng này có thể đe dọa tính mạng hoặc tử vong và nên ngừng điều trị nếu một trong hai tình trạng xảy ra. Cập nhật và báo cáo bất kỳ thay đổi nào xuất hiện ở bệnh nhân.
Độc tính trên tim
Kéo dài khoảng QT là một tác dụng không mong muốn của các chất ức chế BRAF, đặc biệt với vemurafenib và encorafenib, hiếm gặp hơn ở với dabrafenib. Cầntheo dõi điện tâm đồ đặc biệt đối với những bệnh nhân sử dụng các thuốc kéo dài khoảng QT khác. Thông tin kê đơn của vemurafenib khuyến cáo theo dõi điện tâm đồ thường xuyên, đo QTc vào ngày 15 hàng tháng trong 3 tháng đầu, và sau đó 3 tháng một lần. Bệnh cơ tim với giảm phân suất tống máu thất trái có liên quan đến việc sử dụng các chất ức chế MEK và phối hợp chất ức chế MEK với chất ức chế BRAF. Khuyến cáo đánh giá phân suất tống máu thất trái dựa trên siêu âm tim, trước khi bắt đầu điều trị bằng chất ức chế MEK, 1 tháng sau khi bắt đầu điều trị, và mỗi 2 đến 3 tháng sau đó. Tư vấn cho bệnh nhân về các dấu hiệu và triệu chứng của giảm phân suất tống máu thất trái và lịch trình kiểm soát theo khuyến cáo.
Độc tính trên mắt
Cả hai chất ức chế BRAF và MEK đều có tác dụng không mong muốn trên mắt như viêm kết mạc, khô mắt,viêm màng bồ đào khi sử dụng chất ức chế BRAF và tắc tĩnh mạch võng mạc, bệnh võng mạc khi sử dụng chất ức chế MEK. Viêm màng bồ đào do chất ức chế BRAF có thể được kiểm soát bằng các thuốc nhỏ mắt tại chỗ và ngừng điều trị. Chỉ có thông tin kê đơn cho encorafenib khuyến cáo theo dõi nhãn khoa “đều đặn”. Tuy nhiên, việc theo dõi thường xuyên đem lại nhiều lợi ích hơn cho bệnh nhân. Khi bắt đầu sử dụng các thuốcnày, bệnh nhân nên được theo dõi và tư vấn báo cáo về cơn đau mắt, cảm giác sợ ánh sáng, sự thay đổi thị lực và mất thị lực.
Nguồn: https://www.pharmacytimes.
Điểm tin: CTV. Nguyễn Lê Phương Nga, CTV. Vương Thảo Ngân, CTV. Lê Thị Nguyệt Minh
Phụ trách chuyên mục: ThS.DS. Nguyễn Thị Tuyến